Chi tiết bài viết

Tăng cường năng lực quản lý tài nguyên nước các cấp, ngành, địa phương trên địa bàn tỉnh

9:48, Thứ Tư, 14-4-2021

(Quang Binh Portal) - Theo số liệu báo cáo, hiện nay, nhu cầu khai thác nước mặt của tỉnh khoảng 2.317.050 m3/ngày đêm, tương ứng với tổng lượng nước hơn 845,7 triệu m3/năm. Đây là lượng khai thác chiếm 6,78% tổng lượng nước đến của vùng, trong đó sông Nhật Lệ đang được khai thác nhiều nhất chiếm 45,03% tổng lượng nước khai thác toàn vùng, tiếp đến là sông Gianh chiếm khoảng 20,13%, sông Roòn chiếm 12,84%, sông Dinh chiếm 11,31%, sông Lý Hòa chiếm 10,68%.

Theo Luật Tài nguyên nước, các Nghị định của Chính phủ, Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Quyết định của Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng điều kiện thực tế ở địa phương, thời gian qua, UBND tỉnh đã ban hành nhiều quy định, quy chế trong công tác quản lý, cấp phép tài nguyên nước, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về tài nguyên nước trên địa bàn tỉnh.

Trong quá trình khai thác, sử dụng nước mặt, phần lớn đặc điểm diện tích của Quảng Bình là vùng núi cao, sông suối ngắn, độ dốc lớn, lưu lượng dòng chảy rất biến động, cư dân nhiều vùng là người dân tộc có tập quán sinh hoạt ở vùng núi cao nên chủ yếu khai thác nước mặt trên các nhánh suối, nguồn lộ nước thông qua 02 dạng công trình chủ yếu: Hồ chứa, đập dâng; trạm bơm. Theo số liệu điều tra, trên địa bàn tỉnh hiện có 150 hồ chứa, 95 đập dâng, trong đó hầu hết khai thác nước cho sản xuất nông nghiệp, một số hồ chứa có mục đích cấp nước cho sinh hoạt (hồ Phú Vinh, Sông Thai, Thác Chuối). Các công trình đập dâng có đặc điểm là chặn ngang dòng sông, suối phục vụ cho việc lấy nước tưới tiêu với diện tích từ vài ha đến hơn chục ha cho cả hai vụ. Toàn tỉnh có 38 trạm bơm, trong đó khai thác nước cho sản xuất nông nghiệp có 26 công trình, 01 công trình cấp nước công nghiệp và 11 công trình cấp nước sạch sinh hoạt cho người dân.

Đối với hoạt động nguồn nước khai thác, phần lớn các công trình đều nằm trên các khe suối, dòng nhánh của dòng chính. Theo thống kê trong số 283 công trình khai thác nước mặt, có 21 công trình khai thác trên dòng chính, cụ thể: Trên dòng chính sông Rào Trổ (huyện Tuyên Hóa) có 01 công trình khai thác nước mặt phục vụ nhu cầu sản xuất, sinh hoạt; trên dòng chính sông Gianh có 01 công trình khai thác nước mặt phục vụ nước sinh hoạt, sản xuất trong khu vực thị trấn Đông Lê và vùng lân cận thuộc huyện Tuyên Hóa; trên sông Kiến Giang có 15 công trình khai thác nước mặt phục vụ nước sinh hoạt, nước sản xuất; trên dòng chính sông Dinh (huyện Bố Trạch) có 03 công trình khai thác nước mặt phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt; trên dòng chính Sông Nan (huyện Minh Hóa) có 01 công trình khai thác nước mặt.

Bên cạnh những thuận lợi thì đến nay trên địa bàn hiện chưa lập quy hoạch phân bổ, bảo vệ tài nguyên nước mặt nước dưới đất nên chưa đảm bảo thực hiện theo quy định của Luật Tài nguyên nước về quy hoạch tài nguyên nước; chưa xây dựng được mạng lưới quan trắc giám sát tài nguyên nước, trong khi nguồn nước sạch cung cấp cho sinh hoạt của người dân chủ yếu là nguồn nước dưới đất. Cùng với đó, hoạt động quản lý, kiểm soát ô nhiễm nước mới tập trung ở khu vực đô thị và đoạn sông xung quanh thành phố và khu công nghiệp; nhiều làng nghề, vùng nông thôn xả nước thải vào nguồn nước chưa qua xử lý hoặc xử lý không đạt quy chuẩn môi trường đã xả nước thải vào nguồn nước. Việc phối hợp giữa giữa các cấp, ngành chưa thực sự chặt chẽ nên công tác quản lý hoạt động tài nguyên nước nói chung và khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước, hành nghề khoan khai thác nước gặp những khó khăn nhất định. Việc nhận thức Luật Tài nguyên nước và văn bản quy phạm pháp luật tài nguyên nước trong Nhân dân và một số tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước, hành nghề khoan nước còn hạn chế.

Để tiếp tục nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động tài nguyên nước nói chung và khai thác, sử dụng tài nguyên nước, thời gian tới, các cấp, ngành, địa phương xây dựng, tổ chức thực hiện chương trình phổ biến pháp luật về tài nguyên nước trong các cơ quan chuyên môn ở cấp cơ sở (cấp huyện, xã); công khai thông tin về các cơ sở gây ô nhiễm và nguồn nước bị ô nhiễm cho Nhân dân biết và phát huy sức mạnh cộng đồng trong theo dõi, giám sát hoạt động bảo vệ nguồn nước; đẩy mạnh công tác điều tra, đánh giá tài nguyên nước tập trung những vùng đang và có nguy cơ thiếu nước, khu vực có nhu cầu khai thác nước tăng mạnh trong kỳ quy hoạch; thực hiện chương trình kiểm kê, đánh giá tài nguyên nước theo định kỳ; kiểm kê hiện trạng khai thác sử dụng nước; hoàn thiện, nâng cấp hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu tài nguyên nước, gắn với cơ sở dữ liệu về môi trường, đất đai và các lĩnh vực khác thuộc phạm vi quản lý của Sở Tài nguyên và Môi trường, bảo đảm tích hợp với hệ thống thông tin cơ sở dữ liệu về tài nguyên nước, cơ sở dữ liệu về tài nguyên và môi trường của Trung ương.

Mặt khác, các cơ quan, đơn vị, địa phương cũng thực hiện việc quy hoạch chi tiết khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước ở từng địa bàn hành chính; căn cứ diễn biến nguồn tài nguyên nước, tình hình thực tế về số lượng, chất lượng các nguồn nước và khai thác, sử dụng nước, định kỳ rà soát, điều chỉnh bổ sung quy hoạch cho phù hợp với yêu cầu thực tế; xây dựng chương trình giám sát và báo cáo về tình hình khai thác sử dụng tài nguyên nước trên các khu vực thuộc địa bàn tỉnh; thực hiện việc rà soát, kiểm tra thường xuyên, phát hiện các tổ chức cá nhân khai thác nước mặt chưa có giấy phép hoặc chưa đăng ký; hoàn tất việc đăng ký, cấp phép, xử lý đối với các công trình khai thác tài nguyên nước đã có để đưa vào quản lý theo quy định.

Ngoài ra, tỉnh sẽ triển khai áp dụng một số giải pháp về khoa học công nghệ như xây dựng mạng quan trắc giám sát khai thác sử dụng tài nguyên nước, sử dụng công nghệ tự động và truyền số liệu kỹ thuật số từ các trạm quan trắc về trung tâm quản lý dữ liệu; sử dụng công nghệ định vị vệ tinh toàn cầu (GPS) kết hợp với các công cụ ứng dụng hệ thống thông tin địa lý; công nghệ phân tích ảnh viễn thám; triển khai kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu để phòng, chống, giảm nhẹ tác động của hạn hán cũng như sử dụng biện pháp tiết kiệm nước trong nông nghiệp...

Minh Huyền

Các tin khác

Thông báo mới

VB mới

Chủ tịch HCM và đại tướng Võ Nguyên Giáp

Thông tin tuyên truyền (PBPL ... DVC)

Footer Quảng Bình

Lượt truy cập