Chi tiết bài viết

Xử lý, khắc phục tình trạng sạt lở bờ sông, bờ biển nhằm bảo đảm an toàn tính mạng và tài sản của Nhân dân

10:52, Thứ Tư, 2-12-2020

(Quang Binh Portal) - Tình trạng sạt lở bờ sông, bờ biển ở nhiều địa phương trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đang diễn biến phức tạp, uy hiếp trực tiếp đến tính mạng, tài sản của người dân ven sông, ven biển. Để chủ động xử lý, khắc phục tình trạng sạt lở bờ sông, bờ biển nhằm bảo đảm an toàn tính mạng và tài sản của Nhân dân, công trình phòng, chống thiên tai, cơ sở hạ tầng, phục vụ sản xuất, ổn định dân sinh, thời gian qua, tỉnh đã triển khai thực hiện quyết liệt Quyết định số 957/QĐ-TTg ngày 06/7/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phòng, chống sạt lở bờ sông, bờ biển đến năm 2030.

Là tỉnh có địa hình phức tạp, bị chia cắt mạnh, hẹp bề ngang và dốc, nghiêng từ Tây sang Đông, đại bộ phận địa giới hành chính trên đất liền của Quảng Bình là vùng đồi núi (chiếm trên 85% diện tích tự nhiên), đồng bằng nhỏ hẹp, đất lúa ít, đất nông, lâm xen kẽ và bị chia cắt bởi nhiều sông suối dốc, chảy xiết. Toàn tỉnh có 05 con sông đổ ra biển với tổng chiều dài 343 km và diện tích lưu vực 7.980 km2, lưu lượng dòng chảy tương đương 04 tỷ m3/năm, trong đó có 02 hệ thống sông lớn là hệ thống sông Gianh dài 158 km, chiều dài lưu vực 121 km, diện tích lưu vực 4.680 km2 và hệ thống sông Nhật Lệ dài 96 km, chiều dài lưu vực 59 km, diện tích lưu vực 2.650 km2. Ngoài ra còn có sông Roòn dài 30 km, chiều dài lưu vực 21 km, diện tích lưu vực 261 km2; sông Lý Hòa dài 22 km, chiều dài lưu vực 16km, diện tích lưu vực 177 km2; sông Dinh dài 37 km, chiều dài lưu vực 25 km, diện tích lưu vực 212 km2.

Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các hệ thống sông trên địa bàn tỉnh có đặc điểm ngắn, dốc nên khi mưa xuống, nước tập trung nhanh, chảy xiết sẽ gây nên hiện tượng xói lở mạnh bờ sông, nhất là những đoạn sông cong, bờ cấu tạo bởi đất màu, lớp đất cát, pha cát, đất bùn hữa cơ. Tình hình xói lở xảy ra ở hầu hết hệ thống sông trong toàn tỉnh, chủ yếu tập trung trên 02 hệ thống sông chính là sông Nhật Lệ và sông Gianh. Quá trình xói lở ngày càng mãnh liệt hơn do tác động đan xen của nhiều nguyên nhân trực tiếp hoặc gián tiếp từ tự nhiên (bão, áp thấp nhiệt đới, mưa lũ …) và liên quan đến biến đổi khí hậu trên toàn cầu cũng như một số hoạt động kinh tế, xây dựng công trình trên các lưu vực sông chưa đảm bảo đầy đủ nguyên tắc phát triển bền vững và phá vỡ trạng thái cân bằng vốn có của nó. Tốc độ xói lở trung bình từ 01-03 m/năm, đặc biệt có nơi từ 05-10 m/năm ở các xã Quảng Hải, Quảng Minh (thị xã Ba Đồn); các xã Tiến Hóa, Đồng Hóa, Lê Hóa, Đức Hóa (huyện Tuyên Hóa), xã Cảnh Hóa (huyện Quảng Trạch) thuộc lưu vực sông Gianh; các xã Phúc Trạch, Sơn Trạch (huyện Bố Trạch) thuộc lưu vực nhánh sông Son, sông Gianh.

Bên cạnh đó, bờ biển Quảng Bình có chiều dài gần 116,04 km trải dài từ huyện Quảng Trạch cho đến Lệ Thủy, vùng cát ven biển có độ cao từ 02-50 m so mực nước biển, độ dốc có những nơi đạt 600. Dọc bờ biển nhiều nơi là khu dân cư tập trung của Nhân dân đánh bắt và chế biến thủy sản, các khu nghỉ dưỡng, hàng năm chịu ảnh hưởng trực tiếp của nhiều đợt gió mùa Đông Bắc kết hợp triều cường, nhiều đợt bão, áp thấp nhiệt đới gây xói lở bờ biển, lấn sâu vào đất liền uy hiếp nhiều nhà cửa, khu dân cư, các công trình công cộng. Hiện tượng sạt lở bờ sông, bờ biển một phần do tác động của thiên tai như bão, áp thấp nhiệt đới, mưa lũ, triều cường, sóng biển, kết cấu và sự vận động tự nhiên của địa chất, địa mạo ven sông, ven biển. Trong những năm gần đây, sạt lở bờ sông, bờ biển gia tăng một phần do hậu quả từ các hoạt động nhân sinh như lấn chiếm, vi phạm, xây dựng công trình không tuân thủ quy hoạch; khai thác cát, sỏi quá mức trên sông làm suy giảm lượng bùn cát về hạ lưu, cộng với tình hình biến đổi khí hậu làm gia tăng cường độ thiên tai gây sụt lún, xói lở, bồi lấp.

Trước tình trạng đó, để chủ động quản lý, phòng, chống sạt lở bờ sông, bờ biển tạo điều kiện ổn định và phát triển kinh tế - xã hội khu vực ven sông, ven biển, góp phần bảo đảm an ninh - quốc phòng, các cấp, ngành, địa phương tiếp tục tuyên truyền nâng cao nhận thức của các tổ chức và người dân về phòng, chống sạt lở bờ sông, bờ biển; kiểm tra, đôn đốc địa phương tăng cường bảo vệ, phát triển rừng ngập mặn, rừng phòng hộ ven biển, đẩy mạnh xã hội hóa công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, gắn với ổn định sinh kế cho người dân; nghiên cứu phương án chỉnh trị, phòng, chống sạt lở đối với các tuyến sông, vùng bờ biển trên địa bàn làm cơ sở cập nhật vào quy hoạch tỉnh; nghiên cứu, đề xuất, tổ chức xây dựng công trình phòng, chống sạt lở bờ sông, bờ biển, trong đó tập trung xử lý khẩn cấp khu vực sạt lở đặc biệt nguy hiểm; xây dựng công trình chỉnh trị sông nhằm giữ ổn định tỷ lệ phân lưu, dòng chảy, hình thái sông, bờ sông, bờ biển tại những khu vực trọng điểm, vùng cửa sông, ven biển có diễn biến bồi, xói phức tạp, công trình phòng, chống sạt lở bảo vệ khu đô thị, khu tập trung dân cư tập trung có nguy cơ sạt lở; nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, vật liệu mới phù hợp với điều kiện cụ thể để phòng, chống sạt lở.

Cùng với đó, các sở, ngành phối hợp với huyện, thành phố, thị xã, đơn vị liên quan kiểm soát hoạt động khai thác cát, sỏi lòng sông, khu vực ven biển, ngăn chặn khai thác cát, sỏi trái phép, nhất là tại các khu vực đã được cảnh báo có nguy cơ sạt lở; thực hiện đầu tư xây dựng hệ thống quan trắc, giám sát và tổ chức quan trắc, giám sát, nghiên cứu và cảnh báo các khu vực có nguy cơ sạt lở bờ sông, bờ biển, cập nhật cơ sở dữ liệu về sạt lở trên địa bàn; quản lý chặt chẽ vùng đất ven sông, ven biển không để xây dựng, nâng cấp nhà ở, công trình ven sông, ven biển làm tăng nguy cơ sạt lở, bị rủi ro do sạt lở; chủ động bảo vệ hành lang, bảo vệ bờ biển trên địa bàn tỉnh; tổ chức lập quy hoạch di dời, sắp xếp các khu dân cư, công trình kiến trúc, kho tàng ra ngoài khu vực có nguy cơ sạt lở, đảm bảo an toàn tính mạng, tài sản của Nhân dân; xây dựng công trình chỉnh trị sông nhằm giữ ổn định tỷ lệ phân lưu, ổn định dòng chảy, hình thái sông, bờ sông, bờ biển tại các khu vực trọng điểm, vùng cửa sông, ven biển có diễn biến bồi, xói phức tạp; xây dựng công trình phòng, chống sạt lở bảo vệ khu đô thị, khu tập dân cư tập trung có nguy cơ sạt lở; rà soát, nghiên cứu lắp đặc hệ thống quan trắc lòng dẫn trên các sông, cửa sông thuộc phạm vi UBND tỉnh quản lý.

Mặt khác, UBND các huyện, thị xã, thành phố tổ chức tuyên truyền nâng cao nhận thức của các tổ chức, người dân về phòng, chống sạt lở bờ sông, bờ biển; kiểm tra, rà soát công trình, nhà ở tại các khu vực ven sông, ven biển có nguy cơ sạt lở; tổ chức di dời dân cư khẩn cấp ra khỏi khu vực sạt lở đặc biệt nguy hiểm và nguy hiểm; từng bước sắp xếp lại dân cư, di dời dân cư ra khỏi các khu vực có nguy cơ sạt lở cao, kết hợp với tái định cư, ổn định đời sống cho người dân; kiểm tra, khảo sát các khu vực ven sông, ven biển có nguy cơ sạt lở để lập kế hoạch ứng phó, xử lý; thông báo, cảnh báo vị trí bờ sông, bờ biển có nguy cơ sạt lở để người dân biết, chủ động di dời, vận động, hỗ trợ người dân di dời ra khỏi khu vực nguy hiểm đến nơi an toàn; thường xuyên kiểm tra, phát hiện trường hợp xây dựng công trình trên hành lang bảo vệ bờ sông, bờ biển; phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường và các sở, ngành liên quan kiểm tra, xử lý nghiêm trường hợp không được cấp phép, khai thác trái phép cát, sỏi lòng sông trên địa bàn theo đúng thẩm quyền, quy định của pháp luật hiện hành…

Ngoài ra, các tổ chức, cá nhân có hoạt động liên quan đến bờ sông, bờ biển ngay khi phát hiện khu vực ven sông, biển có nguy cơ sạt lở nằm trong phạm vi quản lý phải có trách nhiệm báo cáo cho chính quyền địa phương, các cơ quan liên quan để có biện pháp xử lý; bị ảnh hưởng sạt lở phải chủ động di dời an toàn người và tài sản ra khỏi khu vực có nguy cơ sạt lở; đồng thời tuyệt đối không thực hiện hoạt động xâm phạm đến hành lang bảo vệ an toàn bờ sông, bờ biển hoặc gây nguy cơ sạt lở bờ sông, bờ biển.

Minh Huyền

Các tin khác

Thông báo mới

VB mới

Chủ tịch HCM và đại tướng Võ Nguyên Giáp

Thông tin tuyên truyền (PBPL ... DVC)

Footer Quảng Bình

Lượt truy cập