Chi tiết bài viết

Thu hẹp dần khoảng cách về mức sống của vùng dân tộc thiểu số và miền núi so với vùng phát triển trên địa bàn tỉnh

16:42, Thứ Năm, 31-12-2020

(Quang Binh Portal) - Theo báo cáo của Ban Dân tộc tỉnh, vùng dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN) của tỉnh có 61 xã, thị trấn, 01 huyện vùng cao (Minh Hóa), 01 huyện miền núi (Tuyên Hóa) và 05 huyện, thị xã có miền núi với diện tích tự nhiên 6.649 km2 (chiếm trên 3/4 diện tích tự nhiên của tỉnh). Theo Quyết định số 582/QĐ-TTg ngày 28/4/2017 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt danh sách thôn đặc biệt khó khăn, xã khu vực III, khu vực II, khu vực I thuộc vùng DTTS&MN giai đoạn 2016 - 2020, Quảng Bình có 64 xã thuộc vùng DTTS&MN. Hiện, cả tỉnh có 40 xã và 27 thôn, bản đặc biệt khó khăn thuộc diện đầu tư của Chương trình 135 giai đoạn 2016 - 2020. Về dân số vùng DTTS&MN có 75.600 hộ với hơn 288.500 người, trong đó đồng bào DTTS có 26.376 người, cụ thể: Bru - Vân Kiều có 18.438 người, dân tộc Chứt có 6.791 người, các dân tộc khác 847 người (dân tộc Tày, Nùng, Thái, Mường…). Đồng bào DTTS sinh sống tập trung ở 106 thôn, bản thuộc 17 xã miền núi, vùng cao các huyện Minh Hóa, Tuyên Hóa, Bố Trạch, Quảng Ninh và Lệ Thủy.

Trong những năm qua, nhờ sự quan tâm của Đảng và các chính sách của Nhà nước, sự nỗ lực vươn lên của người dân, kinh tế - xã hội vùng DTTS&MN đã có bước phát triển rõ rệt. Kết cấu hạ tầng thiết yếu phục vụ dân sinh và phát triển kinh tế vùng (giao thông, thủy lợi, điện, nước sinh hoạt, trường học, trạm xá, thông tin liên lạc) được đầu tư xây dựng khá đồng bộ. Đến nay, 100% xã có đường giao thông đến tận trung tâm xã; 65% thôn, bản có đường giao thông từ xã đến thôn, bản đi lại thuận tiện trong 04 mùa; 96,8% xã có điện lưới Quốc gia với hơn 97,3% hộ sử dụng điện, chỉ riêng hiện 02 xã Tân Trạch và Thượng Trạch (huyện Bố Trạch) chưa có điện lưới, đang sử dụng hệ thống điện năng lượng mặt trời; 100% xã có trường lớp mầm non, trường tiểu học, trung học cơ sở; 100% xã có trạm y tế; 100% xã được phủ sóng phát thanh, truyền hình, hạ tầng viễn thông và được phủ sóng di động, đáp ứng nhu cầu thông tin liên lạc của người dân. Trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, công tác giáo dục ở vùng DTTS&MN có nhiều tiến bộ. 100% số xã có trường tiểu học, hầu hết các xã đã đạt chuẩn phổ cập tiểu học, nhiều nơi đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Loại hình trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú được thành lập. Để đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho vùng DTTS&MN, toàn tỉnh hiện có 05 trường phổ thông dân tộc nội trú, trong đó 01 trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh, 04 trường phổ thông dân tộc nội trú huyện (Minh Hóa, Bố Trạch, Quảng Ninh và Lệ Thủy); 11 trường phổ thông dân tộc bán trú.

Đối với hoạt động giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống vùng DTTS&MN, các lễ hội truyền thống của vùng đồng bào DTTS được bản tồn và phát huy như Hò thuốc Minh Hóa, Lễ hội Rằm tháng 3 (huyện Minh Hóa) được tổ chức thường xuyên; Lễ hội Lấp lỗ của đồng bào Vân Kiều, Lễ hội Đập trống của người Ma coong ở Thượng Trạch (huyện Bố Trạch) được bảo tồn và phát huy. Đặc biệt, Lễ hội Đập trống của người Ma Coong đã được công nhận Di sản Văn hóa phi vật thể Quốc gia… Bên cạnh việc duy trì và phát triển các thiết chế văn hóa ở cơ sở, nhiều gia đình, thôn, bản, khu dân cư ở vùng DTTS&MN cũng được công nhận là gia đình văn hóa, đơn vị văn hóa. Công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho người dân vùng DTTS&MN được quan tâm với 100% trạm y tế có bác sỹ, các thôn, bản được bố trí cán bộ y tế để khám, chữa bệnh ban đầu cho Nhân dân; 100% người dân hộ nghèo vùng DTTS&MN được cấp Thẻ Bảo hiểm Y tế. Ngoài ra, hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết vùng DTTS được tăng cường và củng cố; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội vùng đồng bào DTTS được đảm bảo. Đồng bào luôn phát huy truyền thống bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc, góp phần giữ vững an ninh biên giới Quốc gia.

Mặt khác, công tác giảm nghèo vùng DTTS&MN cũng đạt được nhiều kết quả tích cực. Sinh kế của người dân ngày càng đa dạng, thu nhập được nâng lên, đời sống không ngừng cải thiện, hộ nghèo giảm khá nhanh. Tỷ lệ hộ nghèo vùng DTTS&MN giảm bình quân 7,49%/năm (năm 2016 tỷ lệ hộ nghèo các xã đặc biệt khó khăn là 50,60%, đến đầu năm 2020 giảm còn 20,65%); tỷ lệ hộ cận nghèo giảm bình quân 0,97%/năm (tỷ lệ hộ nghèo đầu năm 2016 là 24,29%, đến đầu năm 2020 còn 20,65%). Tỷ lệ hộ nghèo DTTS của tỉnh giảm bình quân hơn 5,58%/năm (năm 2016 tỷ lệ hộ nghèo DTTS là 79,96% đến đầu năm 2020 còn 57,65%). Thu nhập bình quân hộ nghèo vùng DTTS&MN đạt 20 triệu đồng/năm (đầu giai đoạn 10,5 triệu đồng/năm). So với trước kia, điều kiện sống của đồng bào các DTTS đã có những bước cải thiện rõ rệt song so với mặt bằng chung vẫn còn có sự chênh lệch khá lớn.

Bên cạnh những kết quả đạt được, vùng đồng bào DTTS cũng còn những tồn tại, hạn chế, đó là: Kinh tế chậm phát triển so với tiềm năng của vùng, cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động chuyển dịch chậm; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn thiếu và yếu kém; tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo vùng DTTS&MN còn cao; kết quả giảm nghèo thiếu tính bền vững, tỷ lệ tái nghèo cao; chất lượng giáo dục, nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi thấp. Cùng với đó, một số chính sách còn ngắn hạn, thiếu tính chiến lược lâu dài, chồng chéo về đối tượng, địa bàn thụ hưởng. Các chính sách đều mang tính chất hỗ trợ, chính sách đầu tư chưa đáp ứng được yêu cầu cơ bản, do vậy hiệu quả của chính sách chưa thực sự bền vững; nhiều chính sách khi hết hiệu lực nhưng không đạt được mục tiêu đề ra do nguồn vốn Trung ương cấp không đủ, phải kéo dài thời gian thực hiện dẫn đến định mức không còn phù hợp với thực tế. Hệ thống chính trị cơ sở ở một số nơi còn yếu, đặc biệt đội ngũ cán bộ có năng lực, trình độ còn hạn chế, nhất là thiếu đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số; tỷ lệ cán bộ là người DTTS trong chính quyền cấp huyện và tỉnh còn thấp…

Giai đoạn 2021 - 2030, tỉnh sẽ tiếp tục khai thác tiềm năng, lợi thế, đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội; giảm nghèo nhanh, bền vững, thu hẹp dần khoảng cách về mức sống, thu nhập so với bình quân chung của tỉnh; quy hoạch, sắp xếp ổn định dân cư, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, liên vùng, kết nối với các vùng phát triển; phát triển toàn diện giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa; cải thiện rõ rệt đời sống của Nhân dân vùng DTTS&MN trên địa bàn.

Ngoài ra, địa phương cũng sẽ nâng cao số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động là người DTTS; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các DTTS đi đôi với xóa bỏ phong tục tập quán lạc hậu; thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ, trẻ em; xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đảm bảo an ninh trên tuyến biên giới; củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc, nâng cao niềm tin của đồng bào các dân tộc đối với Đảng và Nhà nước.

Minh Huyền

Các tin khác

Thông báo mới

VB mới

Chủ tịch HCM và đại tướng Võ Nguyên Giáp

Thông tin tuyên truyền (PBPL ... DVC)

Footer Quảng Bình

Lượt truy cập