Chi tiết bài viết

Công tác dân số - một trong những giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và toàn xã hội

16:33, Thứ Hai, 14-9-2020

(Quang Binh Portal) - Thời gian qua, công tác dân số trên cả nước đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, tốc độ gia tăng dân số được khống chế thành công, đạt mức sinh thay thế vào năm 2006, sớm hơn 10 năm so với mục tiêu đề ra và tiếp tục duy trì hơn 01 thập kỷ qua. Đất nước bước vào thời kỳ cơ cấu dân số vàng vào năm 2007 với 70% dân số nằm trong độ tuổi lao động, qua đó đóng góp tích cực cho sự phát triển về mọi mặt của đất nước trong hơn 30 năm đổi mới. Mặc dù vậy, thực trạng chênh lệch mức sinh đáng kể giữa các vùng đang là thách thức, hiện có 21 tỉnh, thành phố trong cả nước có mức sinh thấp, thậm chí một số tỉnh mức sinh rất thấp, đã có 09 tỉnh/thành phố trong cả nước đạt mức sinh thay thế và 33 tỉnh/thành phố có mức sinh cao.

Đối với tỉnh Quảng Bình, trong điều kiện kinh tế - xã hội còn rất khó khăn, chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế nhưng hiện mức sinh cao và có xu hướng chênh lệch đáng kể giữa các huyện, thị xã, thành phố, điều này tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giải quyết việc làm, chăm sóc sức khỏe cũng như nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân trên địa bàn.
Theo báo cáo của Sở Y tế, dân số Quảng Bình tính đến thời điểm 0 giờ ngày 01/4/2019 là 895.430 người; tỷ lệ tăng dân số bình quân năm giai đoạn 2009 - 2019 là 0,58%/năm, thấp xa so với giai đoạn 1989 - 1999 là 2,08%/năm; tỷ suất sinh thô giảm từ 19,01‰ (năm 1999) xuống còn 15,63‰ (năm 2019); số con trung bình mỗi phụ nữ giảm từ 2,67 con (năm 2001) xuống còn 2,43 con (năm 2019). Do khống chế được tốc độ gia tăng dân số nên quy mô dân số tăng chậm. Kể từ năm 2009 đến nay, quy mô dân số của tỉnh tăng thêm 50.537 người; tỷ lệ tăng dân số bình quân giai đoạn 2009 - 2019 là 0,58%/năm (cả nước 1,14%/năm), giảm nhẹ so với tỷ lệ tăng dân số bình quân 10 năm trước 0,03 điểm phần trăm (giai đoạn 1999 - 2009 tỷ lệ tăng dân số bình quân là 0,61%/năm; cả nước là 1,18%/năm). Nếu tính trong vòng 20 năm qua, dân số Quảng Bình tăng 100.550 người, ít hơn nhiều số dân tăng trong giai đoạn 1989 - 1999 và là thành công lớn mà Chương trình Dân số - Kế hoạch hóa gia đình (KHHGĐ) đã đạt được, chứng tỏ những chính sách, giải pháp đối với mục tiêu điều chỉnh quy mô dân số phù hợp trong từng thời kỳ, có ý nghĩa lớn đối với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, làm tăng GDP bình quân đầu người, an ninh lương thực được bảo đảm, góp phần quan trọng vào công cuộc xóa đói giảm nghèo của tỉnh nói riêng và đất nước nói chung.

Thành công của công tác dân số trong thời gian qua đã làm cho tỷ lệ “nhóm phụ thuộc từ 0 - 14 tuổi” giảm mạnh, nhóm dân số trong độ tuổi lao động tăng nhanh. Nếu năm 1989, tỷ trọng dân số dưới 15 tuổi là 42,7% thì năm 2019 còn 26,56%, tỷ trọng dân số từ 15 - 64 tuổi năm 1989 là 52,2% thì năm 2019 tăng 64,9%, tỷ trọng dân số từ 65 tuổi trở lên của tỉnh là 8,5%. Theo nghiên cứu của Liên Hợp Quốc, cơ cấu dân số của một Quốc gia được coi là trong thời kỳ dân số vàng khi nhóm dân số trẻ em (0 - 14 tuổi) chiếm tỷ trọng nhỏ hơn 30% và nhóm dân số người cao tuổi (từ 65 tuổi trở lên) chiếm tỷ trọng thấp hơn 15%. Điều này khẳng định mức sinh của Quảng Bình liên tục giảm trong hơn 20 năm qua, gánh nặng của dân số trong độ tuổi có khả năng lao động của địa phương dưới tác động của tỷ số phụ thuộc trẻ em ngày càng được giảm đi và hiện đang có nguồn nhân lực lao động dồi dào, là lợi thế của “cơ cấu dân số vàng” cho sự tăng trưởng kinh tế của tỉnh.

Tuy nhiên, nếu tính trong vòng 10 năm trở lại (2009 - 2019), cơ cấu dân số đã có chiều hướng thay đổi, số lượng và tỷ trọng dân số phụ thuộc có tăng nhẹ, dân số trong độ tuổi lao động năm 2019 giảm nhẹ so với năm 2009. Bên cạnh đó, số con trung bình của một phụ nữ tăng trở lại trong những năm gần đây, tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên có xu hướng tăng ở nhiều địa phương, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đồng bào công giáo, kể cả cán bộ, đảng viên và một số gia đình có kinh tế khá giả. Theo kết quả thống kê số liệu từ ngày 01/4/2018 - 31/3/2019, tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên của tỉnh là 26,49%, trong đó khu vực nông thôn là 27,9%, cao hơn khu vực thành thị 6,94%; riêng Minh Hóa là huyện có tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên cao nhất (chiếm 35,95%), tiếp đến là huyện Quảng Ninh (33,12%)... Nguyên nhân là do hiệu quả công tác truyền thông, giáo dục chưa đồng đều giữa các vùng, miền, giữa nhóm đối tượng. Sản phẩm truyền thông còn đơn giản, thiếu sáng tạo, chưa khai thác, phát huy được lợi thế của các loại hình truyền thông hiện đại. Số lượng, thời lượng tuyên truyền về giảm sinh của các cơ quan truyền thông đại chúng, các ban, ngành, đoàn thể và cơ quan, bộ phận dân số các cấp chưa nhiều, thường xuyên, cải tiến về nội dung, hình thức hoạt động. Việc xây dựng, duy trì và phát triển các mô hình truyền thông, truyền thông dựa vào cộng đồng chưa được phong phú, đa dạng. Nhu cầu tránh thai chưa được đáp ứng, tình trạng phá thai và vô sinh có xu hướng tăng, ảnh hưởng đến việc cải thiện sức khỏe bà mẹ, trẻ em và hạnh phúc của hàng triệu gia đình…

Để tiếp tục giảm mức sinh, phấn đấu đạt mức sinh thay thế trên phạm vi toàn tỉnh, góp phần thực hiện thành công Kế hoạch hành động giai đoạn 2020 - 2025 của tỉnh thực hiện Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030, thời gian tới, các cấp, ngành, địa phương tham mưu ban hành Nghị quyết, Chương trình, Kế hoạch... đưa mục tiêu, chỉ tiêu quy mô dân số, giảm mức sinh vào hệ thống chỉ tiêu kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030; rà soát, đề nghị sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản, chính sách pháp luật theo hướng tăng cường hiệu quả, hiệu lực quản lý Nhà nước trong lĩnh vực dân số, tập trung chính sách giảm sinh; triển khai tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách về giảm sinh, không sinh con thứ ba cho các tầng lớp Nhân dân; tăng cường công tác quản lý Nhà nước về hộ tịch, đăng ký khai sinh, đăng ký kết hôn.

Cùng với đó, các sở, ban, ngành, địa phương tổ chức triển khai một số chương trình, đề án, dự án về thanh niên có liên quan nội dung điều chỉnh mức sinh; sắp xếp mô hình tổ chức, bố trí nhân sự hợp lý đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác dân số trong tình hình mới; chỉ đạo các cơ quan báo chí đưa chương trình điều chỉnh mức sinh là một trong những nội dung thường xuyên, liên tục được truyền tải trên phương tiện thông tin đại chúng tạo sức lan tỏa sâu rộng trong toàn xã hội; đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục dân số, sức khỏe sinh sản cho học sinh trong nhà trường phù hợp từng cấp học; xây dựng, cập nhật chương trình, tài liệu đào tạo, giáo dục dân số, sức khỏe sinh sản trong nhà trường, bảo đảm hình thành kiến thức, kỹ năng đúng đắn có hệ thống cho thế hệ trẻ; triển khai chương trình, đề án, dự án về bình đẳng giới, bảo trợ xã hội, giáo dục nghề nghiệp, tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo; hướng dẫn thực hiện chính sách an sinh xã hội cho các đối tượng ưu tiên; lồng ghép nội dung điều chỉnh mức sinh trong việc thực hiện chương trình, đề án, dự án về lĩnh vực gia đình, vận động từng cá nhân, cặp vợ chồng, gia đình không sinh con thứ 3 trở lên; đưa chính sách dân số, nội dung điều chỉnh mức sinh vào hương ước, quy ước của thôn, xóm, tổ dân phố phù hợp với quy định của pháp luật; thu thập, chia sẻ đầy đủ, chính xác, kịp thời số liệu về dân số cho cơ quan có liên quan để đề xuất giải pháp, can thiệp nhằm điều chỉnh mức sinh phù hợp cho từng giai đoạn…

Công tác dân số là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và luôn được xác định là bộ phận quan trọng trong Chiến lược phát triển đất nước, một trong những vấn đề kinh tế - xã hội hàng đầu của Quốc gia, đặt trong mối quan hệ hữu cơ với yếu tố kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh và bảo đảm phát triển nhanh, bền vững. Thực hiện tốt công tác dân số là giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và của toàn xã hội. Để giải quyết vấn đề này và trước yêu cầu, nhiệm vụ cấp bách về công tác dân số trong giai đoạn hiện nay, việc triển khai tốt Chương trình điều chỉnh mức sinh đến năm 2030 sẽ nhằm hướng tới ổn định quy mô dân số, bảo đảm an sinh, phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh góp phần vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Minh Huyền

Các tin khác

Thông báo mới

VB mới

Chủ tịch HCM và đại tướng Võ Nguyên Giáp

Thông tin tuyên truyền (PBPL ... DVC)

Footer Quảng Bình

Lượt truy cập